Theo PGS.TS Lê Ngọc Trọng, trong phát triển CNTT Y tế, phần mềm quản lý bệnh viện giữ vai trò quan trọng nhất trong các phần mềm ứng dụng của Ngành Y tế, vì các hoạt động của bệnh viện chiếm một khối lượng lớn công việc của Ngành Y tế. Hiện nay việc ứng dụng phần mềm quản lý bệnh viện tại các bệnh viện trên toàn quốc còn mang tính tản mạn và tự phát.
Hậu quả của việc này là các phần mềm không đồng bộ, không có tính thống nhất, giá thành cao, gay lãng phí và tốn kém tiền của nhà nước. Để tránh những hậu quả đó tiếp tục xảy ra, việc định hướng có một phần mềm và dữ liệu khung (hay còn gọi là phần mềm cốt lỗi) dùng chung cho các bệnh viện trong toàn quốc là rất quan trọng và cần được thực hiện sớm, đó là bước đầu phát triển phần mềm quản lý bệnh viện để tiến đến nối mạng các bệnh viện trong toàn ngành.
Việc ứng dụng phần mềm khung quản lý bệnh viện cần đạt các yêu cầu sau: mang tính thống nhất cho toàn ngành, có khả năng mở rộng thêm, thích ứng với nhiều cơ sở, giao kết được giữa các bệnh viện trong toàn quốc, dễ quản lý, giá thành hợp lý. Sử dụng đơn giản và đào tạo để phổ biến sử dụng cho nhân viên y tế thuận lợi, nhanh chóng.
Định hướng của Lãnh đạo Bộ về việc khẩn trương xây dựng phần mềm khung trong quản lý bệnh viện và xây dựng ngân hàng dữ liệu trong quản lý bệnh viện thống nhất trong toàn ngành là hết sức cần thiết. Điều kiện thuận lợi cho phần mềm khung được thực thi khi các mô hình quản lý, quy trình hoạt động của các bệnh viện được thực hiện thống nhất theo đúng quy chế bệnh viện Bộ Y tế đã ban hành.
Khung phần mềm quản lý bệnh viện sẽ giúp tăng năng suất chất lượng làm việc

Khung phần mềm quản lý bệnh viện sẽ giúp tăng năng suất chất lượng làm việc. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, phần mềm khung sẽ không thể thoả mãn tất cả các yêu cầu của từng bệnh viện cụ thể, vì vậy mỗi bệnh viện phải tuỳ thuộc vào quy mô và tính chuyên khoa của mình mà mở rộng phần mềm khung cho phù hợp. Xây dựng phần mềm khung quản lý bệnh viện là định hướng quan trọng để phát triển, nhất quán việc chỉ đạo quản lý bệnh viện.
Việc phát triển phần mềm khung quản lý bệnh viện là rất phức tạp cho nên quá trình hoàn thiện, tối ưu, chuẩn hóa phần mềm cần phải có thời gian và cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị chức năng.
+ Phối hợp với Cục Dược xây dựng bộ mã thuốc theo chuẩn quốc tế (ATC) để thống nhất quản lý sử dụng thuốc trên toàn quốc. Hiện nay mỗi bệnh viện đều quản lý thuốc sử dụng trong bệnh viện theo theo danh mục hoặc theo mã riêng của mình gây hạn chế cho việc tổng hợp số liệu toàn ngành.
+ Phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam để thống nhất và tích hợp quản lý thanh toán BHYT. Hiện nay việc quản lý thanh toán cho các đối tượng có thẻ BHYT là tương đối thống nhất về danh mục và biểu giá. Một số loại hình dịch vụ không được BHYT chi trả sẽ được thống kê riêng. Tại các bệnh viện có trang bị phần mềm quản lý thanh toán BHYT cho các nhân viên của bệnh viện sử dụng, sau đó in ra các mẫu báo cáo thường quy và kết xuất các báo cáo theo định dạng tin học để báo cáo cho các đơn vị chức năng của BHXH. Bộ Y tế sẽ đề nghị các đơn vị chức năng và đơn vị quản lý CNTT của BHXH cung cấp các biểu mẫu báo cáo và các định dạng tin học để kết xuất trực tiếp các báo cáo này từ phần mềm khung quản lý bệnh viện, tránh nhập lại thông tin bệnh nhân nhiều lần gây phiền hà cho người bệnh, lãng phí nhân lực bệnh viện tại các bệnh viện có ứng dụng phần mềm quản lý bệnh viện.
Việc xây dựng phần mềm dùng chung là một công việc hết sức lớn và khó khăn trong việc giới hạn khung phần mềm, chuẩn hoá dữ liệu, chuẩn hoá các chỉ số dữ liệu thu thập. Vì vậy, trước hết các bệnh viện có nhu cầu cấp thiết cần chủ động xây dựng phần mềm quản lí bệnh viện phù hợp, theo TS. Lý Ngọc Kính, Vụ trưởng vụ Điều trị, Bộ Y tế. 
Hạnh Chi
Đối với hầu hết các bệnh viện, việc lựa chọn được một Phần mềm quản lý Bệnh viện (HIS) cho bệnh viện/phòng khám của mình là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Chọn đúng, Phần mền đó không những giúp phòng khám giảm chi phí mà còn nâng cao chất lượng bệnh viện/phòng khám, chọn sai thì cái giá phải trả là rất đắt, vừa tốn tiền để mua một Phần mềm không dùng được vừa tốn chi phí khắc phục hậu quả, lãng phí thời gian, đặc biệt là không sử dụng lại được những dữ liệu đã được lưu trên Phần mềm này... Vậy làm sao để tăng khả năng chọn đúng giải pháp? Dựa trên kinh nghiệm nhiều năm triển khai các giải pháp ứng dụng CNTT trong lĩnh vực y tế, tôi viết bài này với hi vọng phần nào giúp các bác sĩ cảm thấy dễ dàng hơn trong việc lựa chọn Phần mềm quản lý Bệnh viện (HIS). 1. Tính năng của phần mềm

Trước hết bạn phải tìm hiểu thật kỹ những tính năng mà phần mềm đó cung cấp, dưới đây tôi sẽ liệt kê ra một số các tính năng căn bản nhất mà một hệ thống quản lý thông tin cho phòng khám cần phải có.
Tiếp nhận bệnh

Bạn nên xem xét thật kỹ chức năng này, vì khâu tiếp nhận cần nhanh chóng, tiện lợi, tránh các câu hỏi lặp đi lặp lại. Nếu tiếp nhận mới (khám lần đầu) thì chỉ nên mất tối đa khoảng 2 phút, tiếp nhận bệnh nhân cũ chỉ nên khoảng 30s.
Thu ngân

Đây là một trong những chức năng quan trọng nhất của hệ thống, nó vừa cần đảm bảo giám sát chặt chẽ doanh thu, chống thất thoát, biển thủ, vừa cần phải linh hoạt trong việc xử lý hủy dịch vụ. Bạn hãy xem xét cơ chế vận hành của chức năng này trên hệ thống ra sao và chắc chắn rằng nó thỏa mãn được các tiêu chí kể trên.
Quản lý cận lâm sàng

Kết quả khảo sát cận lâm sàng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc chẩn đoán và điều trị, vì vậy một hệ thống thông tin tốt là hệ thống hạn chế được tối đa những sai sót không đáng có do nhập liệu bằng tay. Ngày nay các thiết bị y tế hiện đại phục vụ công tác chẩn đoán đều đã có những giải pháp để hạn chế tối đa các sai sót này. Các máy chẩn đoán hình ảnh hỗ trợ chuẩn DICOM (Phần mềm PACs), các máy xét nghiệm cung cấp các giao tiếp để các phần mềm khác kết nối trực tiếp (Phần mềm LIS) để nhận kết quả. Vì vậy bạn cần tìm hiểu xem hệ thống thông tin đó hỗ trợ tự động hóa tới đâu trong việc ghi nhận kết quả khảo sát cận lâm sàng.
Phần mềm có hỗ trợ kết nối trực tiếp 2 chiều với phòng xét nghiệm không?

Việc kết nối trực tiếp với phòng xét nghiệm (phòng xét nghiệm của bạn hoặc phòng xét nghiệm đối tác) giúp tiết kiệm thời gian và tránh các sai sót do nhập liệu bằng tay.
Kết nối 2 chiều tức là hệ thống cho phép bạn gửi các chỉ định xét nghiệm trực tiếp qua phòng xét nghiệm và tự động nhận kết quả trả về khi xét nghiệm được thực hiện xong. Bạn nên chọn một hệ thống mà việc nhập kết quả xét nghiệm được tự động hóa (có phân hệ LIS)
Phần mềm hỗ trợ chuẩn DICOM tới đâu?

DICOM là một chuẩn lưu trữ, xử lý, in ấn ảnh số từ các thiết bị chẩn đoán hình ảnh được NEMA ban hành. Vì rất nhiều ưu điểm vượt trội của DICOM mà nó được chấp nhận rộng rãi ở các cơ sở y tế phương tây, đặc biệt là hệ thống y tế Hoa Kỳ. Bộ y tế Việt Nam cũng yêu cầu các hệ thống CNTT phải hỗ trợ chuẩn này.
Để nói đầy đủ về DICOM thì rất mất thời gian nên đơn giản nhất bạn hãy đặt ra các câu hỏi như sau với nhà cung cấp phần mềm:

  • Hệ thống của bạn có cho phép máy khảo sát hình ảnh tải Worklist (danh sách các chỉ định kèm thông tin bệnh nhân) về hay không?
  • Hệ thống của bạn có tự động lưu hình ảnh gửi về từ máy khảo sát vào hồ sơ điện tử của bệnh nhân không?
Nếu câu trả lời cho 2 câu hỏi trên đều là CÓ, nghĩa là hệ thống đó đã hỗ trợ tương đối đủ để bạn sử dụng rồi. Ngược lại bạn nên nghi ngờ về tính năng này của hệ thống đó. Ở trên tôi nhấn mạnh chữ tự động là vì một số nhà cung cấp phần mềm báo là hỗ trợ DICOM nhưng thực ra họ sử dụng 1 phần mềm thứ 3 để thu ảnh, việc này làm cho quá trình lưu giữ file hình ảnh trở nên phức tạp hơn, dễ nhầm lẫn hơn, tất nhiên là không có tự động. Một số hệ thống khác thì cũng báo là hỗ trợ DICOM nhưng thực chất chỉ hỗ trợ việc hiển thị file DICOM chứ không có khả năng cho các máy khảo sát hình ảnh kết nối vào làm việc theo chuẩn DICOM.
Ngoài ra bạn nên hỏi về khả năng in FILM DICOM và lưu file DICOM ra các thiết bị lưu trữ bên ngoài như USB, CD-ROM, DVD...
Quản lý quy trình thực hiện dịch vụ

Bạn nên tìm hiểu xem hệ thống đó có đảm bảo thực hiện được các công việc sau hay không?

  • Tự kiểm soát quy trình khám chữa bệnh đã định trước.
  • Thông tin bệnh án phải được lưu thông giữa các phòng ban.
  • Cho phép bạn theo giõi tiến độ thực hiện dịch vụ của bất cứ bệnh nhân nào.
Phần mềm có hỗ trợ EMR (hồ sơ y tế điện tử) không?

Bạn nên lưu ý rằng không phải tất cả các hệ thống quản lý thông tin phòng khám đều hỗ trợ EMR. Nhiều hệ thống chỉ hỗ trợ bạn việc quản lý quy trình, quản lý chi phí khám chữa bệnh, hỗ trợ cho cho đơn thuốc, quản lý lịch hẹn, quản lý vật tư y tế… Bạn nên chọn một hệ thống hỗ trợ EMR
Toa thuốc điện tử

Chức năng này cần phải đơn giản, dễ sử dụng, hỗ trợ nhập liệu nhanh và đầy đủ thông tin cho bác sĩ dễ dàng tư vấn cho bệnh nhân. Các thông tin cần có như dị ứng thuốc, số lượng thuốc trong kho, giá bán...
Quản lý lịch hẹn

Chức năng này nên giúp người ghi nhận cuộc hẹn (tiếp tân) dễ dàng bao quát lịch làm việc của các bác sĩ để không gây trùng lặp, giúp bác sĩ theo dõi lịch hẹn hàng ngày của mình.
Quản lý kho thuốc, nhà thuốc

Chức năng quản lý kho thuốc nên cho phép bạn theo dõi được các giao dịch xuất, nhập, tồn kho, hạn sử dụng của từng lô thuốc…Chức năng quản lý nhà thuốc nên cho phép bạn thực hiện việc bán thuốc cho cả bệnh nhân có đơn thuốc chỉ định của bác sĩ trên hệ thống và các khách lẻ bên ngoài. Tiêu chí là kiểm soát chặt chẽ, tránh thất thoát thuốc, tránh gian lận.
Khám gói (khám sức khỏe cho các công ty), khám bảo hiểm

Nếu phòng khám của bạn có thực hiện việc khám gói, hay khám bảo hiểm thì chức năng này là không thể thiếu. Nó sẽ giúp bạn vận hành tốt quy trình khám gói, khám bảo hiểm. Chức năng này cần phải tự động kiểm soát quy trình khám gói, khám bảo hiểm, thực hiện việc tính toán công nợ, kết xuất các báo cáo theo yêu cầu của khách hàng…
Thống kê báo cáo

Bạn nên tìm hiểu thật kỹ công cụ thống kê báo cáo của phần mềm, xem xét độ chi tiết, các thông tin mà công cụ này có thể cung cấp. Nếu công cụ này được hiện thực tốt nó sẽ giúp bạn nắm bắt được tình trạng hoạt động của phòng khám, giúp bạn kiểm soát được nguồn thu từ phòng khám, thực hiện việc chấm công thậm chí là cả việc hoạch định chiến lược...
Phần mềm hỗ trợ sao lưu và phục hồi như thế nào?

Trong hệ thống thông tin quản lý phòng khám thì dữ liệu là phần quan trọng nhất, phần mềm nên đưa ra được nhiều phương pháp để sao lưu toàn bộ dữ liệu, phục hồi ngay lập tức khi cần. Phương án sao lưu tốt nhất là hệ thống sẽ sao lưu tự động và có thể giúp bạn lấy lại dữ liệu ngay cả trong trường hợp thiên tai hay hỏa hoạn.
Phần mềm có dễ sử dụng không?

Thường chúng ta chỉ để tâm tìm hiểu về các tính năng của phần mềm mà bỏ qua khâu thẩm định về tính dễ sử dụng của phần mềm. Một phần mềm có giao diện đẹp, đơn giản, gọn gàng, dễ sử dụng sẽ cho ta cảm giác thoải mái khi làm việc, dễ đưa vào vận hành khai thác, tăng năng suất phục vụ của phòng khám.
Chi phí bản quyền phần mềm khác đi kèm khác?

Đây cũng là một yếu tố chúng ta thường xuyên bỏ qua cho tới khi ký hợp đồng triển khai. Để đảm bảo chi phí không đội lên quá nhiều, các nhà cung cấp thường không đề cập tới các loại chi phí bản quyền kèm theo này. Các chi phí này thường rất lớn:

  • Giấy phép dùng hệ điều hành Microsoft Server cho máy chủ.
  • Giấy phép dùng Microsoft SQL Server, Oracle DB…
  • Giấy phép dùng hệ điều hành Windows cho các máy con.
Khi bạn đề cập tới vấn đề này mà nhận được câu trả lời đại loại là ở Việt Nam đâu ai mua mấy cái giấy phép này đâu anh, thì bạn nên xem xét về khả năng hợp tác với nhà cung cấp này, họ đang đẩy rủi ro về phía bạn đấy.
2. Phần mềm có tuân thủ các yêu cầu của bộ y tế không?

Bộ y tế cũng đã ban hành các văn bản dự thảo luật CNTT cho y tế, và yêu cầu một hệ thống quản lý thông tin phải tuân theo. Bạn có thể tham khảo dự thảo tại website của bộ y tế [Để xem được link, vui lòng đăng ký làm thành viên. ]. Bạn nên chọn cho mình hệ thống nào đáp ứng được các yêu cầu của bộ y tế để hạn chế tối đa chi phí nâng cấp phát sinh sau này.
3. Yêu cầu phần cứng

Ngoài các tính năng của phần mềm bạn đã tìm hiểu ở trên, bạn cũng cần phải quan tâm phòng khám của bạn cần trang bị những thiết bị máy móc gì để có thể chạy phần mềm được. Các máy móc thiết bị thường là:

  • 1 máy chủ và mỗi bác sĩ, tiếp tân, thu ngân 1 máy tính cá nhân làm máy trạm.
  • Máy in, máy đọc mã vạch, video capture (trong trường hợp hệ thống không hỗ trợ DICOM).
Nếu công ty phần mềm đó có thể cung cấp luôn cho bạn các giải pháp phần cứng và mạng thì quá tốt.
4. Khả năng hỗ trợ kỹ thuật

Đây cũng là 1 vấn đề cực kỳ quan trọng khi bạn quyết định mua bất kỳ một hệ thống quản lý thông tin nào. Các công ty cung cấp phần mềm thường cung cấp các gói hỗ trợ như qua điện thoại, trực tuyến, hỗ trợ tận nơi. Ngoài ra bạn cũng nên xem xét tốc độ phản ứng nhanh của đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật. Thường khoảng thời gian phản ứng thường là từ 15 phút tới 24h. Nếu tại phòng khám của bạn có sẵn một đội ngũ IT hỗ trợ thì khoảng thời gian từ 12h tới 24h là chấp nhận được, ngược lại bạn cần đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật từ công ty cung cấp phần mềm phản ứng nhanh hơn để đảm bảo hệ thống được khôi phục sớm nhất có thể -> hạn chế thiệt hại cho bạn.
5. Khả năng đáp ứng các nhu cầu của tương lai

Phòng khám của bạn chắc chắn sẽ phát triển, chiến lược kinh doanh của bạn cũng có thể sẽ thay đổi và rất nhiều thứ khác nữa sẽ thay đổi vì vậy bạn cũng cần phải quan tâm đến khả năng đáp ứng với các thay đổi này trong tương lai. Vì vậy bạn cần đặt câu hỏi “Khả năng mở rộng của phần mềm?” Thực ra rất khó có thể kiểm chứng chính xác được câu trả lời cho vấn đề này. Khả năng mở rộng của phần mềm phụ thuộc vào khả năng và tầm nhìn của người thiết kế kiến trúc hệ thống. Nếu kiến trúc hệ thống bên dưới được thiết kế cho việc sẵn sàng được mở rộng thì khả năng nâng cấp, mở rộng là rất cao.
Rất nhiều phòng khám, thậm chí các bệnh viện cả công lẫn tư đều đã có trải nghiệm cay đắng vì đã bỏ qua khía cạnh này khi lựa chọn giải pháp.
6. Mức độ tin cậy của công ty cung cấp sản phẩm tới đâu?

Bạn hãy bỏ ít thời gian để tìm hiểu về công ty cung cấp sản phẩm, họ đã cung cấp sản phẩm cho những khách hàng nào? Bạn hãy mạnh dạn đề nghị họ cho bạn gặp khách hàng của họ, nếu họ sẵn sàng ngay tức là họ rất tự tin về sản phẩm của họ. Còn ngược lại nếu họ tìm cách né tránh vấn đề này, bạn có quyền nghi ngờ về những gì họ nói.
7. Yêu cầu được dùng thử

Sau khi nghe giới thiệu, xem demo giải pháp, và đã bỏ thời gian tìm hiểu kỹ về các tính năng của phần mềm, nếu bạn cảm thấy khá hài lòng về sản phẩm đó thì hãy yêu cầu bên cung cấp phần mềm cho bạn xài thử trong một khoảng thời gian. Thông thường các nhà cung cấp phần mềm sẽ cho phép bạn xài thử từ 2 tuần tới 1 tháng, 2 tuần là quá đủ để bạn trải nghiệm, đánh giá 1 sản phẩm. Một nhà cung cấp giải pháp tốt không những cho phép bạn sử dụng thử sản phẩm mà còn sẵn sàng mời bạn tới tham quan tìm hiểu giải pháp từ các khách hàng hiện có của họ.
8. Giá mua phần mềm

Hiện tại trên thị trường có các sản phẩm với nhiều chức năng tương tự nhau và được chào từ 1 triệu cho tới cả gần 1 tỷ đồng? Rẻ nhất chưa hẳn đã là tệ nhất, đắt nhất chưa hẳn đã là tốt nhất nhưng câu “Tiền nào của nấy” vẫn luôn có giá trị. Giá rẻ hơn thì cũng hấp dẫn thật đấy, nhưng có thể hệ thống đó sẽ không cung cấp cho bạn được những tính năng mà bạn cần như EMR, kết nối máy xét nghiệm, kết nối máy chẩn đoán hình ảnh, DICOM… Và đặc biệt là khả năng mở rộng để phù hợp với sự phát triển của phòng khám bạn trong tương lai.
Bạn hãy xem xét thật kỹ lưỡng tất cả những yếu tố tôi đã nêu phía trên để đánh giá và lựa chọn cho mình một giải pháp phù hợp nhất với phòng khám của mình và với khả năng tài chính của mình.


Dưới đây xin giới thiệu 1 vài đơn vị cung cấp phần mềm HIS đã được ứng dụng ở nhiều bệnh viện.

1. Medisoft (công ty Links TC)
website:

Code:
http://medisoft.vn/

Đây có thể coi là phần mềm HIS đầu tiên của Việt nam và là phần mềm có số lượng khách hàng nhiều nhất.
Ưu điểm: Phần mềm ổn định, nhiều chức năng, hỗ trợ các form báo cáo theo chuẩn của bảo hiểm/ bộ y tế, có đầy đủ các phân hệ (HIS, LIS, PACs)
Nhược điểm: Triển khai chậm, support kém, giá thành cao

2. Hsoft (công ty Đăng Quang)
website:

Code:
http://www.hsoft.vn/

Đây là phần mềm với các chức năng tương tự như medisoft (Đăng Quang là công ty tách ra từ Links TC). 


Ưu điểm: Phần mềm ổn định, nhiều chức năng, hỗ trợ các form báo cáo theo chuẩn của bảo hiểm/ bộ y tế, có đầy đủ các phân hệ (HIS, LIS, PACs)
Nhược điểm: support chậm, giá thành cao
Ngoài ra còn một số phần mềm khách cũng tách ra từ Links TC, tính năng tương tự (HSP, Song Ân, Hoa Sen soft) các bác tự tìm hiểu nhé

3. Ykhoa.net (Hoàng Trung)

Đây là Phần mềm phát triển cùng thời với Links TC, cũng có khá nhiều khách hàng sử dụng, tuy nhiên hiện tại không được đánh giá cao do quản lý khách hàng kém. PM này có đầy đủ các phân hệ HIS, LIS, Pacs
website:

Code:
http://www.ykhoa.net/
ưu điểm: có đầy đủ các phân hệ
Nhược điểm: support kém, cứng nhắc

4.E- Hospital (FPT)

công ty FPT quá nổi tiếng rồi chắc em không cần giới thiệu nhiều, mảng Phần mềm HIS FPT cũng đã tham gia 10 năm, tuy nhiên do không am hiểu về y tế nên đên nay chưa được ứng dụng nhiều tại các bệnh viện
website:

Code:
http://www.fis.com.vn/san-pham/fptehospital
ưu điểm: phần mềm ổn định, đội ngũ chuyên nghiệp, support nhanh,
Nhược điểm: Giá thành cao, chưa có LIS, và cái gì cũng tiền mới okie.

5. Vimes

Đây là công ty mới nổi lên trong 1 vài năm gần đây. hiện đang được khá nhiều bệnh viện sử dụng
website:

Code:
http://vimes.com.vn/
ưu điểm: PM ổn định, có đầy đủ các phân hệ (HIS, LIS, Pacs), giá thành dễ chịu
Nhược điểm: triển khai lâu, support kém

6. DHG.Hospital (Dược hậu giang)

Đây là phần mềm đã phát triển được nhiều năm, có nhiều khách hàng (trong nam) sử dụng
website:

Code:
http://it.dhgpharma.com.vn/index.php?view=article&catid=53%3Aphn-mm-bnh-vin&id=50%3Agii-thiu-phn-mm&option=com_content
ưu điểm: chuyên nghiệp, support nhiệt tình, giá thành dễ chịu
Nhược điểm: không có LIS, Chưa triển khai nhiều ở các BV lớn tuyến Tỉnh, TW

7. (H.I.S) Bệnh viện thông minh

Đây là phần mềm triển khai theo mô hình cho bệnh viện thuê, trả phí theo tháng. Đã triển khai được ở một số Bệnh viện lớn tuyến tỉnh, TW
website:

Code:
http://benhvienthongminh.vn/
ưu điểm: triển khai nhanh, nhiều phân hệ, có đầy đủ HIS, LIS, Pacs
Nhược điểm: support chậm, chi phí cao.
Các bác chú ý có 2 đơn vị cùng có tên là BV Thông minh nhé (có 2 công ty con 1 trong nam, 1 ngoài bắc nhưng cùng chung sở hữu cỏa 1 công ty mẹ )

8. Minh Lộ BV (HIS Minh Lộ
)
đây là công ty nổi tiếng tại các khách hàng tuyến Huyện (tỉnh Thanh hóa, Nghệ an, Hải Phòng,) với tiêu chí dùng nông thôn vây thành thị.
website:

Code:
http://minhlo.com.vn/
ưu điểm: triển khai nhanh, giá thành mềm, support nhanh, thống kê báo cáo tùy chỉnh
nhược điểm: mới chỉ triển khai ở các BV tuyến huyện, chưa có Khách hàng tuyến tỉnh và TW.

Ngoài các đơn vị trên, thị trường Phần mềm cho bệnh viện vô cùng đa dạng, mỗi đơn vị có các ưu nhược điểm khác nhau cũng như phân khúc, thị trường khách hàng khác nhau. các bác vào google gõ phần mềm quản lý bệnh viện + HIS ra một đống : Onemes/onenet, emed, Hà thắng, nanosoft,
 iPharm-HIS, HIS của cục CNTT quân đội, Ngoài các đơn vị triển khai HIS, trên thị trường Phần mềm phục vụ y tế còn các đơn vị khách phát triển các ứng dụng riêng lẻ đáp ứng nhu cầu cho 1 khoa/ phòng trong BV (LIS, PACs, telemedicine). LIS thì có LABCONN (công ty Labsoft, Minh Tâm) , Lablinks (cty Việt ba), Alibaba (hình như bây h sát nhập vào bệnh viện thông minh), Roche Việt Nam. Pacs đa số là các công ty nước ngoài, nổi tiếng nhất chắc là Viêt-hàn, việt ba. Telemedicine mới xuất hiện tại việt nam, thị trường còn nhiều tiềm năng.
Trong năm 2014 ghi nhận 2 đại gia tham gia CNTT tham gia vào thị trường này là Viettel và VNPT hứa hẹn trong các năm tới thị trường Phần mềm cho Bệnh viện vô cùng sôi động 

Ghi chú: trên đây là ý kiến chủ quan của em, không có ý nâng bi hay dìm hàng bất kể đơn vị nào cả, các bác đừng gạch đá tội nghiệp em -
http://biomeq.com.vn/forum/showthread.php?t=42413
NDĐT- Ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế rất quan trọng. Đối với ngành y tế, ứng dụng công nghệ thông tin phải được coi là nhiệm vụ trọng điểm. Đối với ngành công nghệ thông tin, phải coi ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y là một hoạt động trọng tâm.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế lần thứ VII với chủ đề “Ứng dụng công nghệ thông tin trong tư vấn khám, chữa bệnh từ xa (TELEMEDICINE) và dịch vụ công trực tuyến”, vừa diễn ra sáng 15-1, tại Hà Nội.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh, công nghệ thông tin là hạ tầng của hạ tầng. Trong ngành y tế, công nghệ thông tin có thể ứng dụng đơn giản nhất là vào việc xếp hàng khám chữa bệnh tại các bệnh viện (như hệ thống lấy số điện tử); phức tạp hơn như hội chẩn từ xa, bệnh án điện tử, quản lý tổng thể thẻ bảo hiểm y tế, quản lý tổng thể tình trạng sức khỏe cơ bản của mọi công dân bằng thẻ có mã số…
Phó Thủ tướng cho rằng, từ trước đến nay, nước ta đã ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế (như các bệnh viện cũng đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính và nhân sự) nhưng hoạt động này vẫn manh mún và không gắn kết với nhau. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này còn ít và các bệnh viện đều phải tự làm về công nghệ thông tin. Chính vì vậy, cần tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế.
“Tất cả các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc phải được quản lý, phải liên thông với nhau. Người dân phải có thẻ để quản lý về sức khỏe, cơ bản để khắc phục gian lận và khó khăn”, Phó Thủ tướng nói.
Tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã kêu gọi các doanh nghiệp hãy tiên phong và coi đây là một thị trường lớn và bền vững. Phó Thủ tướng cũng đề nghị các Bộ, nhất là Bộ Y tế và Bộ Thông tin và truyền thông cho phép thuê dịch vụ về các ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp và mong rằng hội nghị lần này sẽ tạo sự chuyển biến tốt hơn các lần trước về hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế.
Trong những năm qua, ngành y tế đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin tới nhiều hoạt động y tế từ Trung ương đến địa phương. Thống kê năm 2014, 100% bệnh viện tuyến Trung ương có ứng dụng phần mềm tin học bệnh viện; ở tuyến tỉnh là 68%, và tuyến huyện là 61%. Tuy nhiên, chưa thể kết nối liên thông các hệ thống thông tin giữa các bệnh viện. Bộ Y tế đang triển khai thí điểm dự án Bệnh án điện tử và quản lý hệ thống bệnh viện trong đó có nâng cấp phần mềm tin học quản lý bệnh viện của sáu bệnh viện bao gồm: BV Nhi Trung ương, BV Nhi Thanh Hóa, BV Phụ sản Trung ương, BV Y học cổ truyền Trung ương, BV Đa khoa Hà Tĩnh và BV Đa khoa Trung ương Huế).
Ông Nguyễn Hoàng Phương, Phó Cục trưởng phụ trách Cục Công nghệ thông tin (Bộ Y tế) cho biết, liên thông phần mềm giữa cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan bảo hiểm xã hội là một giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường chất lượng bệnh viện, chất lượng dịch vụ y tế, cải cách thủ tục hành chính khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế. Bộ Y tế cũng đã triển khai hoạt động y tế từ xa tại các bệnh viện (như Bạch Mai, Việt Đức…) với các hoạt động giao ban hàng tuần trực tuyến, chẩn đoán hình ảnh từ xa, hội chẩn, tư vấn các ca khó, khám chữa bệnh từ xa…
Tại hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận những vấn đề chính như: Ứng dụng công nghệ thông tin trong tư vấn khám chữa bệnh từ xa trong Đề án bệnh viện vệ tinh, trong y tế biển đảo, cho việc tăng cường y tế tuyến dưới; ứng dụng công nghệ truyền hình thế hệ mới cho y tế từ xa tại Việt Nam; dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ xa; dịch vụ công trực tuyến.





(eFinance số 108 Ngày 15/06/2012) - Câu hỏi đặt ra cho ngành y là: ai cũng biết, nhiệm vụ chính của Bác sỹ là khám chữa bệnh, nhưng hiện nay các bác sỹ lại phải dành tới 75% thời gian làm việc cho công tác hành chính, giấy tờ (tức 6/8 giờ làm việc hàng ngày cho thủ tục hành chính - PV) thì lấy thời giờ đâu tập trung cho công tác chuyên môn? Tại các tuyến y tế cơ sở, đơn cử một số trạm y tế xã phường, vẫn tồn tại việc mỗi ngày cán bộ y tế phải nhập dữ liệu cho khoảng 25 sổ báo cáo, điều mà đáng lẽ hoàn toàn có thể nhờ ứng dụng CNTT để giảm đáng kể thời gian nhập dữ liệu theo cách thủ công, giấy tờ.
Đó là một trong những vấn đề được chính Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long “bộc bạch” tại Hội nghị Quốc gia về ứng dụng CNTT ngành Y tế lần thứ VI, diễn ra tại Hà Nội vào giữa tháng 5 vừa qua khi nói về thực trạng ứng dụng CNTT của ngành Y tế.
Với chủ đề “Các giải pháp ứng dụng Công nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giảm tải bệnh viện”, Hội nghị kể trên đã tập trung đánh giá thực trạng triển khai ứng dụng CNTT và kế hoạch tổng thể triển khai ứng dụng và phát triển CNTT ngành Y tế giai đoạn 2011-2015, trong đó khâu ứng dụng các giải pháp đột phá được coi là điểm nóng của ngành.
Kém ứng dụng, lãng phí cao
Nhìn thẳng vào sự thật, Thứ trưởng Long cho biết: trong ngành Y tế việc ứng dụng CNTT vô cùng yếu; hạ tầng phần cứng chưa được đầu tư tương xứng; phần mềm sử dụng không thống nhất, các phần mềm ứng dụng tại các cơ sở y tế hầu hết đầu tư theo các dự án riêng biệt “mỗi nơi một phách” gây lãng phí. Chính vì vậy việc quản lý dữ liệu không có sự kết nối, liên thông được với nhau trong quản lý bệnh nhân cũng như quy trình khám chữa bệnh.
Về mức độ ứng dụng CNTT, hệ thống tuyến y tế TW tuy có ứng dụng CNTT khá nhưng vẫn theo kiểu, việc ai nấy làm; tuyến y tế cơ sở, nhất là tuyến y tế dự phòng thì vừa thiếu vừa yếu. Nhiều nơi CNTT vẫn chưa tới được do khó khăn cả về vốn lẫn nhân lực. Cụ thể, tuyến y tế TW mức độ ứng dụng các dịch vụ công mới dừng ở cấp độ II, nhưng cũng không đồng đều giữa các bệnh viện. Trong khi tuyến bệnh viện các tỉnh thành, hầu như việc ứng dụng CNTT rất hạn chế, mọi thủ tục hành chính, quản lý vẫn dựa trên giấy tờ là chủ yếu. Đặc biệt có những thông tin được lãnh đạo Bộ Y tế tiết lộ khiến nhiều người không khỏi… giật mình như: trụ sở cơ quan Bộ Y tế có 2 địa điểm trên đường Giảng Võ và phố Núi Trúc, tuy rất gần nhau nhưng việc liên thông đơn giản nhất là mạng LAN giữa các Cục, Vụ trong Bộ vẫn chưa làm được.
Hoặc đơn cử như bệnh viện lớn tuyến TW như Bạch Mai được coi là triển khai ứng dụng CNTT khá của ngành nhưng việc ứng dụng CNTT và các phần mềm quản lý bệnh viện (quản lý hành chính, quản lý bênh nhân, quản lý quy trình khám chữa bệnh/ cấp phát thuốc/ theo dõi tình trạng tiến triển…) cũng rất tùy tiện, lãng phí và chưa hiệu quả. Cụ thể, tại hầu hết các Khoa, phòng khám trong bệnh viện triển khai Chương trình ứng dụng khám bệnh từ xa (Telemedicine) lại sử dụng tới 18 phần mềm quản lý thuộc 9 công ty khác nhau xây dựng. Chính việc đầu tư chồng chéo, không thống nhất và thiếu đi “nhạc trưởng” điều phối khiến mục đích áp dụng CNTT vào quản lý tại bệnh viện Bạch Mai không đạt yêu cầu, gây lãng phí vô cũng lớn. Hệ lụy là khi dữ liệu quản lý không thể liên thông giữa các Khoa nên trong cùng bệnh viện, khi bệnh nhân muốn chuyển khác lại phải khai báo thông tin cá nhân/tình trạng bệnh lý lại từ đầu. Trong khi đó ứng dụng đặt lịch khám (yêu cầu đầu tiên của chương trình khám từ xa -PV) tại nhà cũng chưa thực hiện được. Bệnh nhân vẫn phải đến trực tiếp bệnh viện xếp hàng lấy số, khiến khâu đón tiếp/xét nghiệm và khám chữa tại bệnh viện luôn trong tình trạng quá tải, nhất là Khoa khám bệnh theo yêu cầu.
Trong khi đó mảng đào tạo, ứng dụng CNTT tại tuyến y tế cơ sở cũng được Bộ Y tế tự đánh giá là vô cùng yếu kém. Cán bộ ngành y sau khi ra trường làm việc vẫn phải thường xuyên cập nhật thông tin, học tập kiến thức mới, nhất là những thành tựu KHCN trong khám và điều trị. Tuy nhiên, do chưa có hệ thống đào tạo trực tuyến thống nhất nên muốn đào tạo nâng cao hay phổ biến thông tin cho cán bộ ngành y là vô cùng khó khăn. Lấy ví dụ như E-learning (đào tạo điện tử) – một nghiệp vụ mang tính bắt buộc để bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ y tế, nhưng hiện này mỗi nơi thực hiện một kiểu, rất lãng phí nguồn lực đầu tư mà hiệu quả đem lại không cao. Chính vì vậy Bộ Y tế đang gấp rút xây dựng Đề án Tin học hóa y tế cơ sở, với mục tiêu giúp cán bộ y tế dễ dàng tiếp cận thông tin KHCN về khám chữa bệnh, khắc phục tình trạng nhiều nơi không hề được đào tạo và cập nhật tin tức như hiện nay.
Đặc biệt khâu quản lý hành chính đang chiếm quá nhiều thời gian của đội ngũ y bác sỹ, theo ông Nguyễn Thanh Long, việc ứng dụng CNTT trong ngành y tế chỉ mới dừng lại ở mức độ tính toán, ít phục vụ cho chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện. Theo báo cáo, hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở còn quá nhiều biểu mẫu thống kê, sử dụng nhiều loại sổ sách khác nhau (cá biệt có đơn vị sử dụng đến 25 loại sổ sách), khi mà những dữ liệu này hoàn toàn có thể nhập một lần vào máy tính.
Tuy nhiên, khi việc ứng dụng CNTT không thống nhất, đồng bộ thì hiệu quả không thấy đâu, mà theo một vài đại biểu tại hội thảo còn cho rằng, nó còn tạo thêm gánh nặng cho nhân viên y tế khi mà vừa phải ghi chép sổ sách vừa phải nhập dữ liệu vào máy tính.
Tăng tốc ứng dụng CNTT vào nghiệp vụ
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cho rằng ứng dụng CNTT trong ngành y tế còn manh mún, dàn trải, thiếu các dự án tổng thể và chất lượng các dự án không cao; Nhân lực chuyên môn về CNTT tại các cơ sở y tế và các đơn vị y tế thiếu, mất cân đối, tự phát, không thống nhất và đây được coi là điểm yếu rất cơ bản, những “nút thắt” cần sớm khắc phục…
Hiện nay Bộ Y tế đã xác định được 247 thủ tục hành chính được thực hiện tại cơ quan Bộ trong các lĩnh vực như dược, mỹ phẩm; khám chữa bệnh; y học cổ truyền; sức khỏe sinh sản; trang thiết bị và công trình y tế; y tế dự phòng và môi trường; an toàn vệ sinh thực phẩm; tổ chức cán bộ… Mục tiêu đặt ra trong thời gian tới là 100% dịch vụ công đơn giản liên quan đến hành chính phải được cung cấp thông tin trên môi trường mạng, số dịch vụ công trực tuyến ở mức 2 là 245 dịch vụ (chiếm 99,2%) phải sớm được hoàn thành.
Về ứng dụng phần mềm, do đặc thù ngành y nên hầu hết các cơ sở y tế đã đưa vào sử dụng các phần ứng dụng như: quản lý nhân sự, vật tư - tài chính, quản lý công văn… đều chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc chuyên môn. Thực tế đã có tới hơn 65% bệnh viện toàn quốc ứng dụng phần mềm báo cáo thống kê của bệnh viện; 20% bệnh viện ứng dụng phần mềm quản lý tổng thể bệnh viện. Một số bệnh viện tuyến trung ương đã hình thành bệnh viện vệ tinh có hệ thống y tế từ xa như Bệnh viện Nhi T.Ư, Việt Đức, Bạch Mai… nhằm tư vấn cho các bệnh viện tuyến dưới. Tuy nhiên, việc ứng dụng các phần mềm vẫn chưa có được kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, Bộ Y tế xác định các đơn vị cần hỗ trợ để các nhà cung cấp dịch vụ tin học xây dựng các phần mềm ứng dụng chuyên biệt trong một số lĩnh vực như quản lý bệnh viện, quản lý trang thiết bị, quản lý đào tạo,… đồng thời Bộ Y tế cho sử dụng một số chuẩn quốc tế làm cơ sở xây dựng các phầm mềm ứng dụng.
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long đề nghị việc cần làm ngay là đánh giá đúng thực trạng về những khó khăn, yếu kém đối với việc ứng dụng CNTT trong ngành y tế, nhất là ở y tế cơ sở. Như vậy ngay trong năm 2012, Bộ Y tế sẽ tập trung triển khai một số dự án ưu tiên nhằm tăng cường ứng dụng CNTT phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân như xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu Bộ Y tế; đăng ký vốn năm 2013 cho dự án “Bệnh án điện tử và quản lý hệ thống khám chữa bệnh”; xây dựng chuẩn CNTT trong ngành y tế; nâng cao năng lực hệ thống thông tin y tế; xây dựng dự án quản lý bệnh nhân sử dụng công nghệ Smartcard với mã bệnh nhân thống nhất; hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi cho dự án "Xây dựng dịch vụ tư vấn y tế, khám chữa bệnh từ xa"...
Đặc biệt năm 2012, Bộ Y tế cũng sẽ gấp rút kiện toàn tổ chức CNTT, như việc thành lập Cục Công nghệ thông tin thuộc Bộ Y tế và phòng Công nghệ thông tin ở tất cả các bệnh viện hạng I và hạng đặc biệt; ưu tiên một số dự án trọng điểm quốc gia như phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện dự án Internet cộng đồng nông thôn - Hợp phần Bộ Y tế. Bộ Y tế phấn đấu đến năm 2015 có các phần mềm hỗ trợ 100% hoạt động quản lý, điều hành tại cơ quan Bộ Y tế; 100% cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Y tế ứng dụng CNTT để quản lý mọi mặt hoạt động quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ hành chính. Qua đó rút ngắn thời gian cho thủ tục hành chính, để bác sỹ có điều kiện chuyên tâm vào công tác chuyên môn.
Thiếu “tài” hay thiếu tầm?
Tài chính và tầm nhìn là 2 chủ đề được nói đến nhiều nhất tại Hội nghị ứng dụng CNTT ngành Y tế vừa qua. Nhân lực CNTT ngành y nói chung đang thiếu, ngay Bộ Y tế cũng chưa thành lập được Cục ứng dụng CNTT để làm đầu mối chỉ đạo và thực hiện các dự án CNTT toàn ngành theo hướng tập trung, thống nhất. Trong khi đó, nguồn lực tài chính đầu tư cho các dự án CNTT cũng thiếu và không được các đơn vị chú ý đầu tư đúng mức.
Theo ông Nguyễn Hoàng Phương - Phó Vụ trưởng Vụ KHĐT: kinh phí cho CNTT đã có mục chi tiêu riêng, nhưng kinh phí được duyệt cho mỗi dự án rất ít, khoảng 500 triệu đồng trên mỗi dự án. TCụ thể, có những dự án hàng chục, hàng trăm tỷ đồng nếu muốn triển khai khiến nhiều đơn vị sau khi được phê duyệt không hề thực hiện, hoặc nếu làm một “mẩu”, hết tiền thì dừng lại gây lãng phí lớn.
Đặc biệt sau Hội nghị ứng dụng CNTT ngành Y tế lần thứ V (năm 2009), Bộ Y tế đã có chỉ thị 02/CT-BYT về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT toàn ngành, trong đó cho phép ưu tiên dành tối thiểu 1% kinh phí từ các nguồn cho đầu tư CNTT. Tuy nhiên, nhiều nơi đã không thực hiện việc này. Đau lòng hơn, theo ông Phương trăn trở, rất nhiều địa phương chỉ trông chờ tiền hỗ trwoj, tiền dự án của Chính phủ rót về khiến việc triển khai ứng dụng CNTT tại các đơn vị được thực hiện theo kiểu có tiền dự án thì có ứng dụng, hết tiền thì… thôi.
Tiền thì thiếu, trong khi tầm nhìn của lãnh đạo đơn vị - liệu pháp cuối cùng giải quyết vướng mắc việc triển khai ứng dụng CNTT liệu có thiếu? Thật bất ngờ khi lãnh đạo Bộ Y tế thẳng thắn nhìn nhận: nhân lực - công nghệ - phần mềm… thiếu thì có thiếu, nhưng không thực sự là vấn đề trọng yếu, mà ngành y đang thiếu những “thuyền trưởng” tại các đơn vị.
Ứng dụng CNTT ngành y đang không được đầu tư tương xứng với yêu cầu, lấy ngay ví dụ như Trung Quốc, dù là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, nhưng thu nhập đầu người còn thấp, chăm sóc y tế còn kém phát triển. Tuy nhiên nước này đã mạnh dạn đầu tư rất lớn cho hệ thống khám chữa bệnh ngay từ tuyến cơ sở, đặc biệt là tích cực ứng dụng CNTT cho các trung tâm ý tế lớn, qua đó các bệnh viện tuyến dưới đã “chia lửa” rất tốt đối với các bệnh viện tuyến trên, không có hiện tượng quá tải, dồn về Trung ương như ở Việt Nam.
Có thể nói, câu chuyện ứng dụng CNTT ngành Y chỉ còn trông chờ vào tầm nhìn và quyết tâm của lãnh đạo đơn vị, mà nếu điều này cũng thiếu thì rất khó để việc ứng dụng CNTT ngành Y tế có được “quả ngọt” để tổng kết, để báo cáo tại Hội nghị Quốc gia về ứng dụng Công nghệ Thông tin ngành Y lần VII, tức là sau 2 năm nữa…
(Nam Phương - http://www.taichinhdientu.vn/